Chiến lược đổi mới giáo dục
(Lê Thanh Đức làm 7/10/2014)
A/ Đổi
mới giáo dục hướng đạt phát triển con người, xây dựng con người phù hợp vận
động và phát triển xã hội (chú ý: phù hợp ‘vận động’ giai đoạn phát triển con
người - xã hội).
Rèn
luyện đạt văn hóa, thể thao, quan hệ, kiến thức…theo từng mức phù hợp tuổi phát
triển.
I/ -
Học tập: rèn luyện đạt hoàn thiện con người cuộc sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng
xã hội…mà quan trọng là giai đoạn khoảng 18 năm của đời người học phổ thông thì
trường học và phương pháp học phải phấn đấu đạt môi trường sống (18 năm đầu một
đời người đã sống ở đâu, như thế nào…cũng như giai đoạn trên 60 tuổi nơi sống
tuổi già - được thỏa mãn cuộc sống như thế nào), chứ giáo dục không coi đó là
giai đoạn kiểu bước đệm chỉ mục đích đạt học vì mai sau, mà học sinh được tự
hào cuộc sống18 năm đó.
Mức
phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng Việt Nam đang song hành (và tương lai) với
nguồn nhân lực như thế nào? bao gồm đáp ứng nhu cầu học và đòi hỏi xã hội, với
kế hoạch từng giai đoạn dẫn tới mức (lượng) học sinh được đào tạo đại học, cao
đẳng hay chỉ tốt nghiệp phổ thông (hoặc có chỗ xã hội chỉ cần học hết lớp 9 của
thời điểm: học sinh A học hêt lớp 9 theo cha mẹ làm nghề rồi tự học trong cuộc
sống – nhưng khuyến khích và quyền lợi được học hết phổ thông; phấn đẩu phổ cập
hết phổ thông).
II/- Ba phần lực lượng (học sinh) chính xã hội:
1/ -
Học xong phổ thông: đủ mức phát triển thể chất – kiến thức, được rèn luyện lao
động, quan hệ cuộc sống…
2/- Cao
đẳng: mức ‘thợ’ (tay nghề); chú ý có hình thành kiểu thợ sau vươn được làm quản
lý.
3/- Đại
học: quản lý xã hội, tay nghề cao tri thức…
Mỗi
phần đó phải có ‘mức’ (lượng) phù hợp từng giai đoạn phát triển (cần số lượng
bao nhiều lao động phổ thông, bao nhiêu mức cao đẳng, mức đại hoc…).
- Đại
học không phổ cập đại trà mà phù hợp mức kinh tế Việt Nam đang cần – đang đáp
ứng được (phần nhu cầu, phần con người vươn, lối thoát trong ngoài nước…thi tốt
nghiệp xét đại học sẽ nguy cơ đại trà), như thế mới không lãng phí (thời gian,
vật chất đầu tư), mới đủ điều kiện nhà nước – xã hội đáp ứng nhu cầu học, có
thời điểm đất nước sẽ đạt mức phổ cập. Vì vậy nhà nước cũng phải song hành đổi
mới cơ chế (bên cạnh Bộ giáo dục đổi mới giáo dục).
Cơ chế
Nhà nước và phương pháp giáo dục để điều chỉnh nguồn đào tạo (lượng và chất)
mức đại học, cao đẳng…Chẳng hạn: bao nhiêu sinh viên nguồn ngân hàng, bao nhiêu
sau này làm ở các bộ phận nghiên cứu….nhưng kinh tế Việt Nam chưa mức như Nhật
Bản, đội ngũ sáng tạo chưa như ở hãng Sony …đó chính là điều quan trọng chiến
lược đào tạo phải phù hợp ‘quá trình vận động xã hội’ (hiện tại, chuẩn bị tương
lai).
B/ Cách
đổi mới giáo dục như thế nào đáp ứng quá trình vận động phát triển xã hội? phù
hợp khả nặng hiện tại Việt Nam và đột phá đáp ứng tương lai, theo được với Thế
giới… đó là cách định hướng đào tạo đại học – cao đẳng – phổ thông đạt tối ưu
(quá khứ, hiện tại, tương lai).
(Các
bạn có thể xem tóm tắt chiến lược ở phần dưới cùng cho dễ hình dung trước vậy)
I/
Chiến lược đổi mới:
1/- Phổ
thông cơ sở vẫn để 9 năm học (từ lớp 1 tới 9; cấp 1 -2). Phổ thông trung học
(PTTH - cấp 3) dùng làm định hướng. Chia ra 2 mức cho học sinh chọn:
a/
Những học sinh đăng ký học lớp 10 và lớp 11 rồi thi cao đẳng.
b/
Những học sinh đăng ký học thêm lớp 12 rồi thi đại học.
Phần
học sinh còn lại chỉ cần tốt nghiệp thì học xong lóp 11 là đạt.
Những
người dự định thi đi cao đẳng chỉ phải học 11 năm phổ thông, những người đi đại
học phải học 12 năm phổ thông.
Hoặc
chung cả 12 năm nhưng những người dự định chỉ thi cao đẳng thì ở cấp 3 sẽ được
bớt phần chương trình học.
2/-Công
nhận tốt nghiệp phổ thông bắt đầu học xong lớp 11. Học sinh không phải tổ chức
thi tốt nghiệp phổ thông trung học (cách công nhận chất lượng tốt nghiệp và để
có chất lượng trình bày sau), bỏ thi tốt nghiêp phổ thông trung học (PTTH).
Phương
pháp đổi mới là bỏ thi tốt nghiệp PTTH mà vẫn duy trì kiểu thi đại học như cũ
(có đổi mới cách thi đại học).
3/-
Phương pháp chia học sinh PTTH thành 2 loại là một số chỉ học hết lớp 11 rồi
được công nhận tốt nghiệp sẽ đi thi cao đẳng hoặc thôi học tự đi làm (11 năm ra
trường PTTH) và số còn lại tiếp tục học thêm 1 năm lớp 12 để thi đại học (12
năm ra trường PTTH).
4/-
Kiến thức của học sinh PTTH thì biên soạn lại căn bản lớp 11 là xong, lớp 12
chỉ nâng cao và rèn để đòi hỏi mức cao hơn đi đại học (những cách soạn sách và
nguyên nhân vì sao vậy sẽ trình bày ở sau).
Cấp phổ
thông cơ sở (từ lớp 1 tới 9) tạo cách đào tạo phổ cập chung, chương trình không
áp lực nặng nề, không mang tính hàn lâm (những thừa) mà mang tính phong phú
phát triển con người, chưa tạo kiểu đào tạo ‘gà chọi’ môn mà phát triển đủ tài
năng (nhiều kiểu thông minh: âm nhạc; thể thao; toán, ngôn ngữ, mỹ thuật…).
Phương pháp học phù hợp phát triển thể chất con người, cuộc sống cơ sở vật chất
hiện tại (cũng phải hướng đáp ứng được đòi hỏi tương lai), được tham gia tự do
phát triển theo khả năng, xây dựng cuộc sống trẻ thơ tốt…
5 câu
hỏi để người đẹp trở thành đẹp nhất
5/- Thu
hút được phần học sinh đi cao đẳng tạo phù hợp lực lượng sản xuất trong xã hội
(kiểu ‘thầy - thợ’), không bị đua ‘danh’ dồn phần phình quá lớn đi thi đại học.
Thu hút
trường cao đẳng nghề: Nhà nước ưu tiên cở sở vật chất đào tạo, phương pháp đổi
mới đào tạo cao đẳng để thu hút và tạo đội ngũ tay nghề càng nhiều càng tốt, cơ
chế tạo nhiều việc làm cho thợ (tạo thị trường thu hút đầu tư, khuyến khích
trang trại, xuất khẩu lao động tay nghề….)…hoặc ‘thợ’ ra trường nhiều đang chờ
việc là động lực mạnh xã hội (dễ tập hợp sáng tạo khám phá sản xuất, nguồn cung
lao động dồi dào thu hút đầu tư nước ngoài…).
II/
Chương trình phổ thông (lớp 1 tới 11) giảm tải kiểu áp đặt và hàn lâm (hàn lâm
thừa – cao) như hiện nay mà đổi mới bằng phương pháp xây dựng chương trình mới
là:
1/ -Xây
dựng cuộc sống trẻ thơ thời đi học phổ thông.
2/-
Được hoàn thiện phát triển (không bị bỏ sót những năng khiếu – tài năng) và
được thú vị trong môi trường cùng nhau phong phú lĩnh vực tham gia (thể thao
phát triển con người, được thể hiện - được hưởng thụ hát, ‘toán’ phù hợp mức
cần theo lứa tuổi – kích thích đúng phát triển tư duy…Thông minh kiểu ‘phong
phú’ mà chưa áp lực thông minh kiểu ‘gà chọi’ (dồn học môn toán cực lớn bỏ bê
những môn, những hoạt động khác…) - từ đó mà ‘giảm tải’ cách học nặng nề hiện
nay và học lệch.
3/ Giảm
tải nhưng có phương pháp để không bị hụt hơi của đòi hỏi trình độ bước vào
chuẩn bị thi đại học – trình bày sau.
III/-
Không thi tốt nghiệp phổ thông nhưng học sinh theo học được bởi:
1/-
Chương trình đổi mới giáo dục căn bản dễ theo (giảm tải).
2/-
Chương trình mới tạo phong phú hơn cách lĩnh vực phát triển con người và cách
‘đòi hỏi’ phù hợp nhiều mức, tạo cuộc sống tuổi thơ đi học phổ thông thú vị.
3/-
Chương trình mới tạo được phần lớn học sinh với mức phấn đấu vừa phải là đã có
lối thoát học làm ‘thợ’ (đi cao đẳng) do xã hội tạo thuận lợi những ưu đãi cao
đẳng, những nhu cầu ‘thợ’ (có phá được phần tâm lý đại học chỉ do danh), được
rút ngắn 1 năm không bị học chung thêm (nhu cầu thừa của những học sinh phải
chung mức cao hơn với người thi đại học; giảm hao phí vật chất).
4/-
Chương trình mới tạo phần học sinh còn lại chỉ theo học 11 năm để lấy bằng tốt
nghiệp nhưng do được tham gia trong sự phong phú ‘lúc học – lúc cùng’ mà đáp
ứng được nhu cầu ra của xã hội. Những học sinh này chỉ làm những nghề đơn giản
(trong khi đó xã hội rất nhiều nghề đơn giản cần số lượng) hoặc những học sinh
này chỉ cần mức vậy rồi ra thực tiễn vừa học vừa làm tự trang bị lên (học sinh
A học xong lớp 11 về giúp việc cha mẹ nghề, tự tích lũy từng trải thực tiễn mà
trường lớp khó có…).
5/-
Chương trình giáo dục mới phải tạo trách nhiệm trường và giáo viên bù ‘hổng’
kiến thức từng học sinh để theo được đào tạo và có cách thừa nhận những tích
lũy từng thời điểm (năm học) đã vượt qua được (mục này quan trọng của phương
pháp bỏ thi tốt nghiệp phổ thông mà không bị chất lượng đi xuống - trình bày
sau).
IV/ -
Có thi đại học thì chọn được học sinh chất lượng cao hơn, đáp ứng được của ‘đòi
hỏi’ đào tạo khi bước vào trường đại học.
Chúng
ta bỏ thi tốt nghiệp phổ thông và chỉ còn thi đại học (duy trì thi đại học như
trước đây, tất nhiên cách thi phải đổi mới cho tiến bộ - mình sẽ nghiên cứu bổ
sung dịp khác vấn đề thi này).
V/-
Chúng ta đã thấy vì sao Bộ giáo dục không dám bỏ thi tốt nghiệp và để lại thi
đại học, đó là nguyên nhân:
1/-
Phức tạp của cách đào tạo mới (đổi mới giáo dục) vừa căn bản nhưng lại phải đáp
ứng phát triển con người hoàn thiện, phong phú (sách viết lại, cơ sở vật chất,
lịch học kiểu mới – kiểu phong phú, công nhiều của giáo viên khi phải đáp ứng
học sinh tham gia nhiều môn kiểu phong phú….cho đến cơ chế của tạo ‘thợ’).
Cần lộ
trình và chuẩn bị dài (cách của mức từng giai đoạn – lộ trình mình sẽ bổ sung
thêm bài viết khác).
2/
-Cách ‘phong phú’ tạo lứa học sinh hoàn thiện hơn mà có phần học sinh say mê,
theo được kiến thức kiểu căn bản (viết sách lại) – theo học đáp ứng được chương
trình đào tạo, nhưng Bộ giáo dục vẫn sợ có phần học sinh còn lại không thi thì
không chịu học (phần học sinh này tất nhiên cũng chẳng cần theo cao đẳng).
3/-
Quan trọng là Bộ giáo dục sợ không có nguồn học sinh chất lượng để chuẩn bị cho
ngưỡng vào đại học đòi hỏi cao (học lệch đáp ứng ‘môn gà chọi’ cho đại học mà
chấp nhận điểm yếu là học sinh nghèo nàn nhiều mặt khác).
Kiểu
‘phong phú’ nhưng ‘xã hội khi cần ‘gà chọi’ của đào tạo đại học nghề mức cao
thì lấy đâu ra?
VI/-
Những phương pháp:
1/ -
Khi ta tạo chương trình giáo dục căn bản mà lại phong phú (thú vị phát triển
con người – hoàn thiện dần con người) thì ta viết sách, tạo lịch học, những mức
phải tham gia…mà làm sao hết lớp 11 là căn bản hoàn thiện kiến thức học sinh
phổ thông. Những gì ‘hàn lâm’ chưa cần ở mức phát triển giai đoạn này thì để
sang đai học (chẳng hạn: tích phân, lượng tử…). Mức căn bản 11 năm đó phần lớn
học sinh theo được và học sinh có dành đủ công sức để phát triển phong phú hoàn
thiện mà không bị đẩy học kiểu lệch ‘gà chọi’, nghèo nàn tâm hồn và kiến thức
những lĩnh vực khác (phần nhỏ không theo được thì áp dụng cách bổ túc, cá biệt
quá của học sinh không theo được thì có yếu tố quy định về quyền phát triển con
người riêng và chỉ ra mức trách nhiệm chỉ tới đâu của trường).
2/ Học
sinh thi đại học thì học thêm 1 năm lớp 12. Một năm này cho ta phương pháp được
chạy đua kiểu học chuyên khối gì (môn) – gà chọi. Muốn vậy, kiến thức lý thuyết
11 năm phải thông thạo mức căn bản (theo được). Lớp 12 có kế hoạch đào tạo và
kế hoạch đào tạo là phải hệ thống kiến thức và làm thạo, làm nâng cao.
Chẳng
hạn: tôi thời thi đại học (7x) có toán sơ cấp của trường đại học Tổng hợp viết
gộp hết kiến thức phổ thông trong đó chia ra nhiều phần: lượng, đại, hình…Trong
từng phần lại chia ra chi tiết từng chương như đại số từ đồ thị bậc 2 tới 3…
Sách hay ở chỗ nào? và phương pháp học? đó là: ở chỗ xem lý thuyết, bài giải
mẫu, rồi tự làm bài tập, tự làm trong khoảng thời gian mà mức tư duy chưa giải
ra thì xem đáp án. Bài tập kế thừa dần lên những ý, những câu, những bài khó.
Cứ các phần các chương xem và làm đi làm lại mà thông làu mọi dạng toán. Đi thi
các trường khó như bách khoa, sư phạm… ra đề mà môn toán làm hết. Các đề hay
cũng chỉ do phát triển các ý câu hỏi dần lên của các ý mình đã làm (làm câu c
qua bắc cầu câu a hay b mình đã làm hoặc không gợi ý của hỏi a - b chỉ hỏi c
nhưng vẫn khám phá ra làm câu c thì hãy làm a và b bắc cầu…). Đi thi (kể cả
toán quốc tế) thường đạt điểm cao do dạng toán đã thạo, may mắn gặp bài khó đã
làm thì lợi thế hơn hẳn học sinh khác (hoặc kiểu bắc cầu câu đã làm). Chúng ta
thấy học toán để tư duy phát triển trí tuệ nhưng cũng phần áp lực học nặng ‘đồ
sộ’ để kiểu gặp may bài đã làm (tất nhiên không hổng dạng toán thì dễ, chỉ cần
chăm). ‘Gà chọi’ là có phần ở kiểu ‘đồ sộ bài toán gặp may đã làm qua.
Vậy
chúng ta gộp được căn bản và nâng cao như thế cho học sinh và biết tạo phương
pháp học (phương pháp hệ thống mọi dạng toán) như thế của năm 12 thì rút ngắn
thời gian nâng cao giỏi toán chỉ cần 1 năm (nếu 11 năm lớp dưới mức toán đã căn
bản và được trang bị phát huy môn toán trong kiểu ‘phong phú’ – cách trang bị
môn toán lớp dưới trong kiểu phong phú trình bày sau).
Học căn
bản chưa xong trước 1 năm sẽ khó tạo ‘gà chọi’ bởi lý thuyết chưa hoàn thiện
hẳn của phổ thông nên phải ôn môn toán kiểu manh múm từng giai đoạn (khác với
kiểu được năm lớp 12 tự do xem lại và tự nâng cao mọi dạng toán mọi kỳ học lớp
dưới). Cách đổi mới ‘phong phú’ vẫn có cửa cho ‘thông minh kiểu toán’ phát huy
mức nhỉnh (nhưng không gà chọi ngay trước lớp 12).
Kể ra
môn toán thì tương tự như chuyên khối thi đại học của mọi môn khác.
3/ -
‘Gà chọi’ lớp 12 có áp lực lệch? Do cách chúng ta ‘thông minh đề ra’ giải pháp
kỹ thuật và giải pháp ‘đòi hỏi (để khỏi lệch):
- Được
thi đại học (hoặc đậu vào) phải xét học bạ 11 năm phổ thông mà trung bình từng
môn của các năm phải đạt 5 điểm. Chương trình đổi mới kiểu ‘phong phú thông
minh’ không áp lực học nặng nề các môn thì hầu hết học sinh đạt được và có thêm
biện pháp 2 hay 3… môn kèm.
Như thế
nào là môn kèm? chẳng hạn: môn văn được kèm môn ‘kỹ năng sống’, môn toán được
kèm môn ‘kỹ thuật’ …mà chia ra trung bình 2 môn đạt 5 điểm (có thể xét 3 môn
chia 3; nhưng không nên quá 3). Nhưng môn kèm đều phải trên 4 điểm để không quá
lệch (ví dụ toán 4 điểm, môn kỹ thuật 6 điểm thì chia ra 5 điểm là đạt nhưng 7
điểm và 3 điểm thì không đạt).
Tạo cơ
hội cho học sinh: kỳ nào đó của môn gì lớp dưới đạt 4 điểm thì 3 tháng hè (hoặc
ngay gần ) được trường bổ túc hoặc tự bổ túc trả nợ thi cho đạt 5 điểm. Đó là
phương pháp đào tạo mới, khuyến khích được kiến thức phổ thông ít bị hổng. Bộ
giáo dục cho phép trường (và phần giao trách nhiệm – cách giao phù hợp ) bổ túc
thi lại , các trường không phải năng nề ‘chấm giả’ làm đẹp học bạ và học sinh
thêm quyền ‘được bổ túc cho đạt’.
- Lớp
12 gần với ôn theo chuyên khối thi nhưng vẫn có giờ trên lớp những môn gì, với
mức độ phù hợp (dù lớp 11 đã căn bản xong) để giúp học sinh thoải mãi phát
triển mà không 1 năm lớp 12 áp lực quá môn chuyên khối thi.
Muốn
vậy nên chăng thi đại học ngoài 3 môn khối chuyên nên có 2 môn thi kèm để ‘bổ
túc’gần nghành học. Chẳng hạn: thi bách khoa khối A nên thêm môn văn và kỹ
thuật …mà cách ra đề 2 môn kèm chỉ căn bản, với thời gian thi chỉ khoảng 45
phút (có thể tới làm thủ tục nhập thi là thi luôn 2 môn kèm ‘nhẹ’) và thang
điểm chỉ khoảng 2 hay 3 điểm của bài thi (hay 5 tùy mức ảnh hưởng). Có thể môn
văn hay toán là chọn cố định một môn kèm của mọi khối thi và xét thêm những môn
kèm khác. Nếu thang điểm môn kèm là 10 thì môn kèm phải đạt ngưỡng trung bình
là 5 điểm; thang điểm 5 thì ngưỡng môn kèm phải đạt 3 điểm ….dù cộng tất cả
điểm các môn thi đã đạt (chống lệch). Tốt nhất không có thang 10 điểm môn kèm
vì để tập trung cho khối chuyên.
Kiểu
thi khối mà kèm văn thì đề văn phải đơn giản kiểu một ‘khổ văn’ (chứ không phải
cả bài như học sinh thi khối chuyên văn), biết cách trình bày sự việc, cách
miêu tả, khổ văn hay giai đoạn…(tương tự mọi khối khác).
- Đề
thi đại học phải tạo được sự đòi hỏi kế thừa cấp dưới (lớp 1 -11) kiểu ‘phong
phú, hoàn thiện’ (chẳng hạn: thi đại học khối chuyên môn sinh thì làm sao để
phát huy phương pháp học dưới có đi thực tế nhà nông, công viên...? ví dụ: câu
hỏi làm gì để tạo vườn cây trồng nơi bạn sống đạt làm giàu? mà bao gồm phải kể
ra địa lý nơi sống, kỹ thuật thực hành, cộng đồng…tích lũy được do phương pháp
đào tạo mới gắn thực hành cao.
Phương
pháp đó góp phần chống lệch, tạo phần kế thừa ‘phong phú học ở những lớp dưới’.
- Môn
thêm ở giờ học trên lớp 12 của học sinh thi khối chuyên (khối A hay B …C) làm
sao tồn tại? chúng ta không đòi hỏi chất lượng cao mà tạo kiểu học những môn
kèm hướng thú vị, giúp khám phá cái hay là chính, góp phần thư giãn ‘gà chọi’.
Tạo ‘thời gian’ cách dạy môn kèm theo hướng học sinh thà thư giãn tý còn hơn
tranh thủ tận dụng học môn thi chính (không tận dụng tập trung ôn được môn thi
chính, cách tổ chức và giám sát….). Chẳng hạn: thi khối A đến tiết văn được
nghe ngâm những khổ thơ hay, tiết địa lý xem phim tài liệu ‘quá trình hình
thành dãy núi Himalaya…).
Học bạ
lớp 12 chấm điểm rèn luyện của ‘giờ ngồi nghe môn’ kèm. Giờ môn kèm có thể tổ
chức gộp nhiều lớp theo kiểu nghe thỉnh giảng. Phấn đấu cách thi đại học xen
lẫn tốt môn kèm (có thể Bộ giáo dục bốc thăm môn kèm sát ngày thi đại học để
tạo chống học lệch).
Điểm
rèn luyện của mọi trường có điểm của giờ môn kèm diễn ra như thế nào, giám sát
của Bộ giáo dục, tư cách của trường (không được phép lợi dụng).
4/ -
Chúng ta tiết chế mức đào tạo khối chuyên thi (‘gà chọi’) chỉ ở lớp 12 vì:
a/ -
Tạo những lớp dưới không bị lệch, không áp lực nặng nề kiểu hàn lâm xa vời thực
tế giai đoạn cần và đòi hỏi thi, không nghèo nàn phát triển con người (phong
phú).
b/ -
Phù hợp kiểu phát triển tư duy và mức học cần (mức giỏi môn gì).
Chúng
ta xác định định được mức ‘toán’ (cũng như các môn khác) chỉ cần luyện tới mức
đó (kiểu thang xét mức giỏi) là đủ đáp ứng cho tiếp theo đào tạo đảm đương được
khi vào đại học và quá trình rèn luyện, học hỏi để đạt mức đó là đã thúc đẩy
phát triển tư duy và phong cách lao động (chăm, cách tiếp nhận) – ta gọi ngưỡng
luyện học đạt đỉnh giai đoạn.
Nếu đòi
hỏi tăng lên thì lại làm học sinh thui chột (do áp lực nặng nề - thời gian
không đủ của đồ sộ bài, tiếp thu không nổi mà nghiêng về hướng ‘học vẹt’ – mong
được giáo viên hướng dẫn nhiều bài giải càng tốt – kiểu xem qua, được hướng dẫn
giải bởi không đủ sức tự tư duy quá nhiều bài…), sa vào tốn công vùng kiến thức
dư thừa.
Vì sao
vậy? trả lời:
Khi một
trường đại học tốp đầu mà nhiều người mong muốn thi vào thì đề thi sẽ khó (hay
đòi hỏi điểm cao) để chọn lọc học sinh. Những năm sau càng tích lũy điểm cao
của chọn đậu, bởi học sinh ngày càng phấn đấu giỏi hơn nhau. Dẫn tới cách ôn
thi của từng thí sinh hơn nhau kiểu tích lũy ‘đồ sộ bài’.
Chẳng
hạn: đáng ra bài toán hình học được áp dụng 3 đường trung tuyến giao nhau tại 1
điểm để áp dụng cho chứng minh câu khác bắc cầu qua đó thì cách ra đề thi sẽ
tăng dần mức phức tạp kiểu phải chứng minh giao nhau tại một điểm rồi mới được
áp dụng (tất nhiên trong môn toán hiện nay được áp dụng mà không phải chứng
minh 3 đường giao nhau; nhưng lấy ví dụ để hiểu là có nhiều bài toán khác bị mở
phức tạp kiểu đó).
Giáo
dục của chúng ta đang hướng giỏi kiểu đó – ta goi kiểu T3, bởi như thế mới có
biện pháp chọn lọc thi và ‘nhầm tưởng’ chỉ có tích lũy phức tạp lên kiểu đồ sộ
như thế mới là giỏi toán (sa vào sai ngưỡng mà lại thui chột như đã trình bày
trên).
Phương
pháp tạo độ khó môn toán kiểu đó (giỏi kiểu đó) làm học sinh phải cố định tư
duy khám phá quá sâu, khám phá thừa, bị tạo mê cung dạy toán chỗ đó lâu tìm lối
vượt qua (công sức thời gian tốn nhiều),.
Một
dạng toán bị hướng đào sâu vào độ khó quá mức cần thiết (còn bị tạo lạc lối
kiểu vô bờ, mê cung) trong khi đó thực tiễn chỉ cần đạt mức nào đó của dạng
toán đó là đủ sức để sau này bước lên mức đòi hỏi mới (lên đại học) hoặc dạng
toán đó chỉ cần mức kiểu bài tập như thế nào là khái quát đủ (trang bị đủ). Ví
dụ: toán hình học ‘tứ diện’ chỉ cần tạo mức bài là đủ thạo mà không loạy xoay
tạo kiểu ‘vô bờ’ bài khó nâng cao để kiểu đánh đố học sinh (để chấm chọn học
sinh), dẫn tới ‘dừng lại lâu’ ở kiến thức hình học tứ diện mà chậm dành công
sức cho dạng toán khác (những dạng học lên cao).
Lấy ví
dụ học chuyên khối của tạo gà chọi môn toán mà đúng cho mọi khối chuyên khác.
- Trung
Quốc cũng sa vào giỏi toán kiểu đó do nhầm cho rằng như thế mới giỏi toán (kiểu
giỏi toán) và do hiện nay chỉ như thế mới thi chọn phân loại được học sinh.
Áp lực
trường danh giá ở Bắc Kinh là rất lớn bởi số lượng học sinh ở ‘vùng thuận lợi
đào tạo kiểu gà chọi’ nhiều dẫn tới phải nghiên cứu phức tạp, leo kiểu ‘vô bờ’
đề thi môn toán để phân loại thí sinh. Phương pháp đó tạo không cực giỏi học
sinh và đáp ứng đòi hỏi sai (sâu quá mức dạng mà thiếu phong phú những cái khác
cho mức lên cao), tạo thí sinh những vùng khó khăn (khó khăn cơ sở vật chất,
thiếu điều kiện tạo kiểu ‘gà chọi’) khó đọ thí sinh vùng thuận lợi (những thí
sinh ở vùng được đầu tư tốt gia đình, xã hội). Xã hội bị lệch ngành nghề ‘hot’
(nghề danh giá, lợi nhiều) bởi chủ yếu những nơi thuận lợi chiếm ưu thế.
- Thi
tốt nghiệp xét đậu đại học thì thiệt thòi học sinh vùng khó khăn chất lượng
không bằng thành thị, trong khi đó trường danh giá lại phải tổ chức thêm kiểu
tuyển sinh riêng lặp lại kiểu ‘thi chọn vào trường danh giá ở Bắc Kinh). Tất
nhiên mức phát triển và đòi hỏi cạnh tranh với Mỹ của Trung Quốc thì phải có
kiểu rèn gà chọi riêng hơn nữa ở nhứng giai đoạn nào (Trung Quốc nếu đề xuất
mình sẽ làm riêng).
5/ Làm
sao để các trường ‘danh giá’ không bị leo thang kiểu chọn như thế (đã nêu trên
) đẩy học sinh ở cấp phổ thông bị học lệch, học nặng nề (méo mó phát triển)?
(những trường đại học tốp dưới thì hầu hết học sinh học chu đáo là đã chắc thi
đậu – không phải học ‘kiểu gà chọi’) ta có 2 phương pháp:
a/
Chương trình và phương pháp học tốt để học sinh tới lớp 11 là đều đang dạng căn
bản và được lái hướng chăm, say mê phát triển kiểu ‘phong phú’.
b/
Những trường Đại học danh giá có đề thi theo hướng tích lũy nhiều số lượng câu
hỏi, đòi hỏi tính nhìn nhận nhanh, bao quát, sáng tạo…mà không xoáy vào kiểu T3
(sẽ nghiên cứu bổ sung thêm sau). Những đặc điểm như kiểu tính sáng tạo thì đáp
ứng phát triển con người và lại chống được phương pháp ‘gà chọi’ (học kiểu T3
không khuyến khích đạt đỉnh cao sáng tạo). Hoặc nếu thi chung một đề toàn quốc
thì đề nhiều câu mang tính phân loại cao để học sinh thi trường danh giá mới
đạt mức 7 tới 10 điểm của môn, học sinh trường trung bình chỉ cần đạt 5 điểm…
- Cách
đào tạo đại học cần mức phong phú kiến thức của học sinh ở cấp dưới lên (kiểu
‘phong phú hoàn thiện – đổi mới giáo dục) hơn là kiểu nặng nề ‘gà chọi’ lệch
hoặc giảm phần nào đó ‘gà chọi lệch’ mà bổ sung thêm phần ‘phong phú’. Bên cạnh
đó đại học phải có đổi mới để mức đòi hỏi lớp dưới giảm tải đi mà chỉ cần mức
khá giỏi nào đó (hơi non hơn mức gà chọi hiện nay) mà tăng đòi hỏi kiến thức và
kỹ năng con người thêm kiểu phần ‘phong phú’ (nhắc lại kiểu phong phú là cách
đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng hoàn thiện con người, được phát huy đủ,
đạt cuộc sống đời học sinh).
Những
gì còn hơi non kiểu gà chọi (sau khi đổi mới phổ thông học sinh phát triển
phong phú mà không lệch chuyên sâu kiểu gà chọi; lứa học sinh sau được giỏi hơn
kiểu phong phú nhưng không giỏi bằng ‘môn’ kiểu gà chọi) thì lúc vào đại học
phải bổ sung đào tạo (chương trình đại học có đổi mới). Chẳng hạn:
a/ - có
thể bỏ phần tích phân, lượng tử ở cấp phổ thông mà lên đại học mới bắt đầu học
(tương tự lược bớt ở những môn khác – bởi chưa quá cần thiết hay chưa phù hợp
trang bị giai đoạn).
b/-
hoặc kiểu ‘gà chọi’ T3 – kiểu bớt khoét sâu mà lên đại học bổ sung toán nâng
cao ‘siêu hơn’.
Đại học
vì vậy phải đổi mới đào tạo nặng giáo trình hơn nữa.
Đổi mới
giáo dục là chúng ta giảm tải ở phổ thông (hướng phát triển phong phú, chống
học lệch – học kiểu gà chọi) mà tăng trình đào tạo đại học, tăng tính kế thừa
kiểu phong phú cấp học dưới hơn là chỉ ỷ vào kế thừa kiểu ‘gà chọi’.
Giáo
dục đại học là phương pháp học như ‘làm nghề’ với mọi đòi hỏi căng sức mà không
kiểu giáo dục phổ thông ‘phong phú’ vừa học vừa chơi (phong trào văn nghệ, cuộc
thi cộng đồng, thực hành…) hưởng môi trường cuộc sống tốt. Tất nhiên đào tạo
đại học vẫn phải đổi mới kiểu vừa ‘gà chọi’ (cạnh tranh đòi hỏi cao) vừa phải
‘phong phú’ (học đại học vẫn phải tham gia hoạt động xã hội, mức cân đối nhiều
môn xã hội …). Áp lực và đòi hỏi thì triển khai được ở đại học vì giai đoạn này
học sinh xác định học là nghề học như nghề làm (gồm cả cạnh tranh học bổng, kỹ
năng sống, cạnh tranh ra trường, đòi hỏi tích lũy khám phá không giới hạn,
tranh kỹ năng lao động phương pháp học, bí quyết…).
6/ Nông
thôn miền núi có những nơi học sinh phổ thông đi học bằng xe đạp mà đường đồi
núi tới 15 km, chúng ta phải hoan nghênh những học sinh đó chăm học (tham gia
đầy đủ buổi học là quá mừng rồi). Đổi mới giáo dục phải tạo điều kiện để học
sinh những vùng khó khăn đạt chuẩn tốt nghiệp khác với vùng thành thị thuận lợi
mà không ảnh hưởng quá trình vận động phát triển từng nơi và tổng thể xã hội.
Chất
lượng chi tiết từng môn của đại trà học sinh ở miền núi là thua thành thị. Khi
xét chuẩn để công nhận đã tốt nghiệp phổ thông (vượt qua), chúng ta tạo cách
đào tạo bổ sung riêng cho từng vùng ưu tiên, đó là:
- Xét
quá trình chăm học (lịch học tham gia). Có những con người hình thành chăm chỉ
kiểu ‘giờ công’ học là cũng đã đào tạo được những con người sau này làm nhiều
nghề ‘mức vừa’ xã hội cần (nhân viên tiếp thị, …hoặc mọi nghề đều cần trước hết
phần tính chăm chỉ). Tiêu chí rèn luyện thì được xét là tiêu chí lớn.
- Được
tạo cơ hội môn bù kèm để cân đối, đạt chứng nhận tốt nghiệp phổ thông, chẳng
hạn: môn toán kém thì được bù thêm môn thủ công (cách tính điểm kém như đã nêu
trên); môn văn kém được kèm môn hoạt động xã hội, tham gia phong trào trường và
địa phương…
Đổi mới
giáo dục (kiểu phong phú phát triển, hoàn thiện) là hoạt động xã hội, phong
trào cũng là môn với lịch học phù hợp trường và cộng đồng….
Khuyến
khích giáo viên (trường lớp) sáng tạo cách truyền đạt cho học sinh vùng kém
(vùng miền núi, kể cả vùng đồng bằng mà đang khó khăn…), chẳng hạn: học địa lý
được có phần tiết học kiểu dạy là chỉ xem phim tài liệu hình thành bão…
- Đổi
mới giáo dục là cách ra đề thi có cách đòi hỏi riêng vùng khó khăn khác với
vùng thành thị, chẳng hạn: môn địa lý được ra đề kiểu kể về địa lý vùng đang
sống với những sáng kiến…
- Đòi
hỏi mức tốt nghiệp phổ thông ở vùng khó khăn (kiểu miền núi) là chú trọng môn
khoa học tự nhiên chỉ cần căn bản tính toán thạo, biết các dạng toán (vẽ được
hình, những công thức…) mà không phải toán dạng phức tạp, những môn khác
nghiêng về kiểu ghi nhớ thông tin (kiểu xem phim tài liệu, nghe phân tích cái
hay bài thơ…) – mà không đòi hỏi diễn đạt lại tốt. Những học sinh khá định đi
đại học – cao đẳng được tổ chức học như vùng thành thị…
- Khi
thi đại học thì học sinh vùng khó khăn được những ưu tiên hơn vùng thành thị mà
cam kết những ưu tiên đó bù lại sau này ra trường thì học sinh về lại công tác
phục vụ quê hương mình, từ đó những học sinh miền núi hơi non đầu vào được hơi
non mức theo trong quá trình học đại học (được bù lại trả nợ môn khi thi từng
kỳ chưa đạt nhiều lần hơn – có nhiều thời gian hơn để qua từng phần kiểm tra;
có thể được xét môn kèm…).
Nếu học
sinh vùng khó khăn khi vào học mà đạt mức theo được như sinh viên vùng thành
thị thì được cấp bằng như học sinh vùng thành thị để tự do xin việc khắp nơi
(cách 1). Ở đây ta có 2 dạng bằng tốt nghiệp. Hoặc một cách nữa (cách 2) để học
sinh vùng miền núi (vùng được ưu tiên) đạt chuẩn bằng chung là được học bù thêm
những kiến thức gì do trường bổ túc mà những môn căn bản vẫn chưa theo được như
sinh viên thành thi (vẫn hơi non khó theo bằng thành thị thì được tạo cơ hội bù
thêm ‘công sức – thời gian’: có thể ưu tiên hoạt động phong trào tốt, có những
sáng tạo cho miền quê, trang bị thêm kiến thức những lĩnh vực – học bách khoa
kỹ thuật thêm tìm hiểu môn văn hóa các vùng miền…).
Học
sinh vùng khó khăn hơi non nhưng khi học xong sẽ về lại quê mình mà ít trụ lại
cạnh tranh nơi thành thị (được ưu tiên thì học xong họ rút đi mà không ở lại
cạnh tranh xin việc).
7/- Đổi
mới giáo dục kiểu ‘phong phú, hoàn thiện con người’ thì cá nhân hòa hợp phát
triển mạnh trong môi trường chung, được phát triển cân đối nhiều lĩnh vực…sẽ
tạo lứa học sinh hoàn thiện hơn (khác với lứa kiểu nặng gà chọi, lệch nghèo
nàn, không đủ tham gia sự phong phú…).
- Mỗi
tuần học có khoảng vài tiết đi thực tế ngoài trời (công viên, bảo tàng, giao
lưu các sự kiện – các trường, phong trào với địa phương, ….), thay đổi tư duy
chỉ ngồi lớp, tạo vượt giới hạn gò bó cổng trường. Những phương pháp là có
những tiết học những môn học chung nhiều lớp nên đề ra, có những giờ thể dục
nên ‘đồng diễn chung’ đẹp đẽ (giờ học môn thể dục, nhưng quan trong nhất thể
dục giữa giờ nên tăng lên đạt mức tập nhẹ, tạo liên kết chung – xây dựng không
gian đẹp: có thể 30 phút mà 15 phút tập và 15 phút trước sau thư giãn…15 phút
tập thể dục cho tốt rất quan trọng phát triển thể chất).
- Chú
trọng nghiên cứu đổi mới phương pháp đào tạo: kiểu giờ trên lớp có xem phim tài
liệu ‘VTV2’ (phim tài liệu hình thành dãy himalaya…); bài kiểm tra tự viết ‘địa
lý quê bạn’, phát hiện nơi…tập làm nhà ‘văn’ (tự viết ngắn)….
8/ -
Quan trọng phương pháp đổi mới: kiến thức phải căn bản hệ thống hết tới lớp 11
(lớp 12 chỉ kiểu luyện gà chọi). Bộ giáo dục phải chỉ ra cách hệ thống toàn
diện kiến thức phổ thông và chỉ ra từng dạng cho học sinh luyện.
Có thể
nếu chỉ lớp 12 luyện kiểu ‘gà chọi’ chưa kịp thì nới xuống lớp 11 (thậm chí tới
10; nhưng tuyệt đối không lớp 9.
Ở giải
pháp này thì lớp 11 có nới thêm kiểu tăng kiến thức cả những người đi cao đẳng
(nếu cao đẳng cũng đòi hỏi đầu vào phải nhỉnh thêm tý). Những cách nới thêm của
cao đẳng là kiểu tăng đòi hỏi ‘thực hành’ và kiến thức phục vụ thực hành và
cuộc sống hơn là kiểu đẩy môn toán khó lên (kiểu môn kỹ thuật tăng thêm độ khó,
xem cấu tạo kỹ thuật máy móc nhiều hơn…)
Lớp 1
tới 9: mọi học sinh đều dễ qua nhờ phương pháp các môn đều căn bản; được khuyến
khích và tạo điều kiện mọi phong phú phát triển con người, được tương trợ cùng
nhau giữa mọi người và nhà trường…mà thời gian kín và phương pháp tạo được say
mê, thú vị.
Dạng
kiến thức đều căn bản dễ qua từ lớp 1 tới lớp 9 và cả tới 11 (lớp 9 tới 11 có
thể hơi khó hơn – chỉ là hơi khó hơn của lên cao) nhưng vẫn có học sinh chưa
đạt (thường phương pháp kiến thức đó kết hợp với phương pháp dạy ‘phong phú’
thì học sinh dễ qua) thì tạo mô hình bổ túc lỗ hổng.
Cách bổ
túc lỗ hổng cho học sịnh là quá trình kiểm tra mà phát hiện một học sinh đang
hổng kiến thức gì thì nhà trường tạo điều kiện để bổ thúc (với thời gian bố trí
phù hợp). Có thể chia ra từ lớp 1 tới lớp 3 thành 1 nhóm; lớp 4 tới 5 …lớp 6
-7, lớp 8 -9…hoặc mỗi cấp môt nhóm bổ túc mà cách bổ túc là hội trường chung
giáo viên giảng, khuyến khích học sinh giỏi (hoặc lớp trên tham gia). Tạo phong
trào bổ túc như kiểu ‘loa làng’ tối nay có ca nhạc mà mọi học sinh đều thỉnh
giảng chứ không áp lực tâm lý nặng nề (có thể phương pháp học phong phú mà giờ
‘thêm’ môn gì hoạt động gì của lớp những học sinh đang hổng kiến thức được đi
bổ túc…). Cách diễn đạt mà từng phần kiến thúc ở các lớp khác nhau vẫn chung
được ở một hội trường (hoặc riêng). Cách bổ túc cũng phải thường xuyên đổi mới,
bổ sung với thực tế.
9/-
Trường học phải coi bổ túc kiến thức hổng là một phần trách nhiệm chương trình
dạy (đổi mới là thêm nặng cho trường và giáo viên thêm nhiệm vụ này – khác với
trước đây phó mặc hoặc dở xem tài liệu khi thi mà qua). Học sinh có nhiệm vụ và
quyền được bổ túc, học dốt do tư chất không có lỗi.
Phương
pháp đổi mới giáo dục thì những giáo viên dạy môn phụ sẽ kiêm thêm tiết dạy
hoặc môn dạy mà giờ công lao động tăng sẽ được tăng thêm lương, những giáo viên
dạy môn chính sẽ cũng tăng lương.
Phương
pháp này áp dụng được chính sách tiền lương vì trả đúng theo công sức (môn toán
dạy ít nhưng trí tuệ nhiều; môn phụ chủ yếu ‘đọc’ theo giáo án – đơn giản dạy
hơn thì dạy được nhiều hơn), từ đó cũng định hướng được nguồn vào giáo viên
(khi thi sư phạm xác định: đi dạy toán phải học trội; đi dạy môn phụ phải công
nhiều). Bổ túc cũng tính vào tăng lương (tăng giờ dạy như giáo viên môn phụ
thêm).
Nhà
nước tăng lương cho giáo viên để đáp ứng cách đổi mới và có chính sách tiền
lương tối ưu như thế.
10/ -
Mọi dạng giỏi đều phát triển dựa vào cộng đồng: lớp thi môn toán, cả lớp cùng
thi môn toán với lớp khác mà phải có ‘tính đồng đội trong đó’, những sự kiện tự
phát huy học sinh môn toán mọi nơi mà có sự cổ vũ mọi học sinh, toán gắn với
cuộc sống – cuộc chơi….tương tự ở mọi môn khác.
Thời
gian đào tạo của trường ngoài đào tạo căn bản (chẳng hạn: môn toán căn bản) có
dành thời gian khuyến khích hướng dẫn chỉ ra kiểu thi thố đó để phát huy mọi
kiểu tài năng, tạo cổ vũ tốt (ươm mầm toán, văn nghệ, kỹ thuật, thể thao…). Chú
trọng mọi dạng đều có phương pháp để phát huy kiểu con đường ‘đỉnh - nền’ (mời
xem thêm bài viết ở: https://sites.google.com/site/weblethanhduc/dhao/hanh-phuc-chinh-la ).
Những
dạng giỏi đó có tương trợ lẫn nhau (liên kết học sinh với nhau, giáo viên, …)
mà vẫn chỉ ra học sinh giỏi. Học sinh kiểu giỏi này phải: trội hơn học sinh
khác, giỏi có sự tương trợ (mọi người giúp và tự giúp kèm học sinh khác…khuyến
khích và phương pháp tạo giỏi kiểu tương trợ) - khác với kiểu giỏi ‘gà chọi’
lạc lõng…chẳng hạn: hoạt động xã hội tốt mà trường được nghe hát nhiều; trường
có những đội thể thao nổi bật, 100 em môn toán cùng thi sự kiện toán kiểu
‘Olympia quê’ với những vùng khác đạt nổi bật…
Ngao du
ngắm cảnh non nước Lam Hồng, mình làm thơ:
Hoàng
Hôn
non
nước Lam Hồng
Quả núi
hoa mây trĩu cuối trời
Con
sông uốn khúc vắt ngang đời
Bờ tre
sóng lúa trôi nghiêng nắng *
Lũ trẻ
tung diều cưỡi gió chơi **
Góc
chốn cầu vồng chim xế tổ
Gương
trần bến nước cá trông nơi
Vuông
tròn bóng dáng lần tô mặt ***
Vén cỡ
vần mưa cuốn lấy thời
Bình
chú: (*) những làng quê thấp thoáng trôi dài về phía chân trời; (**) đỡ, đó
đây...; 'vuông tròn': vạn vật, góc cạnh thể hiện khoa học kỹ thuật... với mặt
trời xế dần phía trập trùng núi, điểm tô sắc tía (mời xem thêm VĂN
CHƯƠNG
https://sites.google.com/site/weblethanhduc/van-chuong).
Cứ rằm
Nguyên Tiêu hàng năm mời mọi người chờ xem mình làm thơ hay tặng.
Học
sinh được xem tài năng kiểu vẽ tranh cát..học hưởng thụ cuộc sống.
11/ -
Những học sinh đạt trội môn nào được dùng ‘kiểu tính kèm’ (kiểu tính kèm đã
trình bày) môn khác khi xét tốt nghiệp. Những đạt trội kiểu mức ‘cống hiến’ cấp
vùng địa phương có thể được tính cộng 0,5 điểm (hay hơn) vào thi đại học (học
sinh H1 giúp vùng sống đạt nổi bật và hay hát các phong trào văn nghệ được cộng
0,5 điểm vào thi sư phạm; học sinh H2 sáng tạo nhiều đồ thủ công kỹ thuật được
cộng 0,5 điểm khi thi trường bách khoa..), nhưng điểm cộng của giỏi trội tài
năng phải gắn với mối liên quan nghề của trường đào tạo. Khuyến khích giáo viên
và nhà trường tạo nhiều tài năng trội kiểu đó (không kiểu ‘lạc lõng gà chọi).
- Cách
xét tốt nghiệp các môn 5 điểm có phương pháp môn kèm như đã nêu trên nhưng, học
sinh vẫn chỉ đạt 8/10 của trung bình (hoặc 4/5…) thì được xét thêm lịch chăm
học đầy đủ nghiêm túc, có môn tài năng….Những quá kém chỉ đạt 6/10 của 5 điểm
(hoặc 3/5) thi chưa được xét đậu tốt nghiệp, nhưng nhà trường tạo cơ hội cho
học sinh mọi thời gian bổ túc và thi thố lại những gì yếu kém (và mức đòi hỏi
có khác), chẳng hạn: có thể chỉ môn toán hoặc vài môn khác, hoặc môn bù kèm…chứ
không bắt làm lại tất cả.
- Học
bạ các môn vượt qua 5 điểm mới được thi vào cấp 3 (có xét môn kèm chia trung
bình), có bảo lưu của 3 tháng hè nếu chưa đat của trường cũ tổ chức bổ túc kiểm
tra cho học sinh trả nợ. Chúng ta tạo cơ hội cho học sinh bù hổng, nếu 1 học
sinh chưa đạt học bạ kiểu 5 điểm mà thi đậu cấp 3 thì phải trả nợ học bạ rồi
mới được theo học trường cấp 3, nếu trả nợ chưa kịp thì phải bảo lưu sang năm
theo học.
Tương
tự phương pháp học bạ kiểu 11 và 12 năm học phổ thông mới được đi cao đẳng và
đại học và có bảo lưu kết quả thi đậu trường đại học – cao đẳng nếu học bạ chưa
trả nợ xong.
12/ -
Có thi cấp 3 để khuyến khích bịt hổng nhanh theo các giai đoạn. Đề thi vào cấp
3 nên đổi mới cho phù hợp cách đổi mới giáo dục kiểu ‘phong phú - hoàn thiện’.
Các trường cấp 3 cũng phải đổi mới để không bị cuốn hút học sinh kiểu chọn
trường như chọn gà chọi – phân hóa giáo viên ‘phục vụ’.
Hệ
thống được căn bản kiến thức từ lớp 1 tới lớp 11 thì cũng tác động đến kiểu ít
tạo tồn tại trường chuyên ‘gà chọi’, bởi cách đào tạo mới chưa khuyến khích ra
nhiều ‘gà chọi’.
13/ -
Học sinh lớp 12 bắt đầu thi đại học thì phương pháp đào tạo mới có cách hệ
thống căn bản và nâng cao (như đã nêu trên), có sự hướng dẫn chung của trường
và Bộ giáo dục mà học sinh cũng ít phụ thuộc (ít cần) nơi trường đào tạo ‘gà
chọi’. Giáo viên sẽ ít bị phân hóa ở cụm những ‘trường tốt’ mà phục vụ được
khắp nơi.
- Bộ
giáo dục có chương trình đào tạo qua mạng từ lớp 1 tới lớp 12 từ 19 h30 tới 22
h 30 (cấp 1 có thể chỉ từ 20h tới 21h) mà cách bổ túc chú trọng tạo chương
trình cực hay cho bổ túc lớp 12.
Đổi mới
giáo dục phấn đấu học sinh ở trường là môi trường tốt và đủ lịch thời gian thì
thời gian ở nhà buổi tối có chương trình hay của Bộ giáo dục mà giúp học sinh
không bị cuốn hút đi học thêm.
Chương
trình kín của trường và giúp hoàn thiện học sinh thì cũng ngăn được học thêm,
học lệch. Chương trình bổ túc của Bộ giáo dục hay sẽ giúp học sinh nâng cao
tính tự chủ kiến thức và rút ngắn ngăn cách điều kiện sống các vùng, dành lấy
thời gian đi ‘học thêm’.
Đổi mới
giáo dục được xã hội giúp sức quá trình phát triển cơ sở hạ tầng (đầu tư, kinh
tế đi lên có Internet…), hoặc ở nông thôn khó khăn khuyến kích buổi tối học ở
xóm có đầu tư chung máy tính.
Chương
trình bổ túc của bộ phải đạt hệ thống tốt căn bản (tải về), chú trọng môn khó,
có tính tương tác, tới chi tiết từng lớp hay chi tiết tới từng phần được
giảng…Chú trọng lớp 12 những khám phá hay, những tuần tự nâng cao…Từ lớp 1 tới
lớp 12 có thể chỉ bổ túc những chỗ bước ngoặt kiến thức học sinh hay bị hổng
(theo thống kê phát hiện). Lớp 1 tới 11 có thể được đăng ký bổ túc (chi phí rất
thấp cho học sinh, có ưu tiên). Bổ túc qua mạng chỉ đơn giản phần hổng kiến
thức mà không mang tính dạy thay lý thuyết, bài khó của học sinh từ lớp 1 tới
lớp 11 (lớp 12 khác).
- Khi
đổi mới giáo dục mà Bộ giáo dục thêm phần nhỏ đầu tư chương trình bổ túc thì
lại rất quan trọng cho học sinh. Tốn thêm khoảng 100 giáo viên giỏi (hoặc nhiều
hơn) thể hiện qua mạng nhưng sẽ chổng ‘hổng’ kiến thức học sinh cực lớn (phương
pháp có vẻ tầm thường và chỉ được hưởng ứng nếu có đổi mới giáo dục những sẽ lợ
cực lớn cho xã hội).
Áp dụng
thời đại công nghệ cho giáo dục là một khía cạnh hiệu quả ở chương trình bổ
túc.
14/ -
Chương trình đổi mới giáo dục mang tính ‘phong phú và hoàn thiện’ dành tốt thời
gian và không gian cho học sinh phát triển, tạo đúng thời điểm cho học sinh
tham gia với cách đòi hỏi phù hợp thì học sinh không chạy kiểu lo học trước.
Chẳng
hạn: học sinh A học kỳ 1 lớp 6 đang học môn toán phần A thì không lý do gì gắng
chạy học trước cho nhanh phần A và phần sau đó B – C…vì sao vậy? trả lời: vì
phương pháp đổi mới giáo dục đã tạo:
- Cách
xét tốt nghiệp cân đối; có lớp 12 chuẩn bị cho chuyên khối.
- Những
dạng học kiến thức tiếp theo không quá khó, được bổ túc.
- Thời
gian của trường lớp phù hợp dẫn tới không học trước phần C làm gì để tới giờ
giảng phần C ngồi không (trường lớp không cho tận dụng làm việc khác; trường
lớp có phương pháp dạy mới từng giờ liên kết mọi người bắt buộc mọi người cùng
tham gia ‘luận’ về bài giảng hôm nay).
- Cách
đào tạo mới thì mỗi giờ học là một niềm say mê với nhiều môn phong phú cách
tiếp cận…mà học sinh say mê tham gia.
15/ -
Từ lớp 1 tới lớp 11 thì chắc đạt được phương pháp mới.
Phân
tích lớp 12. Chuẩn bị lớp 12 có nên học trước kiến thức (kiểu 1 học sinh học
xong kiến thức phổ thông môn thi khối chuyên từ lớp 10 để tạo lợi thế ôn thi
trước so với học sinh khác)? Giảm được tồn tại kiểu đó và của những lớp dưới
là:
- Pháp
luật cấm dạy thêm từ lớp 1 tới lớp 11 (có khuyến khích nâng đời sống giáo viên
bởi chính sách tiền lương tăng như đã nêu). Có chương trình bổ túc đi kèm, lịch
đào tạo kín tốt.
Lớp 12
xu hướng bổ túc thêm chỉ diễn ra ở trường (dạng bổ túc này có tiền học thêm –
được quy định phù hợp), có chính sách hợp tác giáo viên giỏi nơi khác, phấn đấu
hạn chế dạy tư.
- Lịch
học tốt của những năm lớp dưới với phong phú tham gia mà những giờ học của lớp
dưới (lớp10, 11) khó bỏ bê làm việc khác.
- Được
một năm lớp 12 thỏa mãn (đủ) chuẩn bị nước rút cho thi đại học…
- Đòi
hỏi rèn luyện hạnh kiểm tốt trong xét học bạ. Chất lượng những tiết học mà học
sinh say mê là tiêu chí hàng đầu của Bộ giáo dục đánh giá tốt học sinh (khuyến
khích đạt thú vị môn phụ).
…..chỉ
ra nhiều yếu tố nữa.
16/-
Cũng có thể chương trình đổi mới vẫn có thể hơi nới ra từ cấp 3 (lớp 10 hay 11)
- đã trình bày 1 ý ở mục 7 - bắt đầu được phần nào đào tạo ‘gà chọi’ bằng những
biện pháp như:
- Có
môn cần thi (môn khối chuyên) nhiều tiết học hơn, nâng cao những kiến thức kiểu
‘thông minh phong phú’ (mà đề thi đại học phải tích hợp có đòi hỏi như dạy vẽ
khoa học cỗ máy….Nhưng kiến thức để được công nhận tốt nghiệp phổ thông thì đòi
hỏi nhẹ hơn (vẫn chỉ căn bản).
Đề thi
đại học có tính phong phú , có thể thêm môn…để chống học lệch quá từ lớp 10.
Cấp 1
và cấp 2 (từ lớp 1 – 9) tuyệt đối không hướng lệch ‘gà chọi’, nghèo nàn những
cái khác.
17/ -
Hết lớp 11 đi học cao đẳng, khuyến khích học sinh bằng cách:
- Phù
hợp năng lực, không bị sa gà chọi đại học.
- Tạo
cao đẳng dạy nghề phong phú phù hợp phát triển sở thích.
- Nhà
nước đầu tư và kêu gọi đầu tư trường cao đẳng.
- Tạo
xã hội đòi hỏi nhân lực thợ nhiều (xuất khẩu lao động, cơ chế phù hợp tập hợp
sản xuất...)..
- Phù
hợp cách đào tạo ‘phong phú – hoàn thiện, tích hợp được kế thừa, phương pháp
đẩy lên cao (lớp 1 tới 11 học nghiêm túc, phong phú hiểu biết, hiểu nhiều môn
căn bản….tạo phong cách lao động tốt chuẩn bị cho người thợ tốt; học thủ công,
tiếp xúc cộng đồng….dễ tiếp thu tay thợ…).
Mục
tiêu đào tạo (chỉ nêu mang tính khái quá ước lượng) là 1/3 dân chỉ cần nghề
kiểu nhân viên (tiếp thị…), 1/10 nghề vị trí đảm đương cạnh tranh cao, bao
nhiều phần người dân nghề mức khá….
Xã hội
phân loại nguồn lực là những nghề đơn giản không cần phải áp lực nặng học với
nghề bác sĩ cạnh tranh cao. Để chuẩn bị thì chương trình giáo dục từ lớp 1 tới
lớp 11 có biện pháp đưa kiểu ‘đỉnh nền’ vào ươm mầm tài năng cái riêng trong
cái chung.
18/ -
Phấn đấu phân luồng học sinh phổ thông – cao đẳng – đại học …đúng khả năng và
sở thích giảm tổn phí xã hội, tránh tình trạng 100 người thi chỉ chọn ra 10 mà
thi hợp nhu cầu đã rèn học có 90 người đạt nhu cầu như thế. Tạo phân cấp lớn
của đề thi (trường đầu chỉ 7 -8 điểm; trường trung bình 5 điểm…).
Quan trọng:
đưa được số đi thi là gần với số đậu do chất lượng thực sự đạt từng mức (từ
trường cao tới trung bình), đánh giá đúng năng lực từng học sinh (trường giúp,
tự học sinh) để thi cho đúng chỗ (đúng trường). Ví dụ:Trường đại học Y tuyển
100 học sinh mà chỉ có 110 em dự thi nhưng 110 em này là xuất sắc, những em
khác không dám dự thi. Nếu có 200 em xuất sắc dự thi thì chiến lược đào tạo
phải mở thêm trường của ngành đòi hỏi cao nữa (để thu hết nhân tài). Thu hút
nhân tài và giảm hao phí xã hội là ở đó.
- Cao
đẳng phấn đấu thu hút đại trà mà chất lượng nhờ lớp 1 tới lớp 9 đào tạo tốt,
đại học thì phân loại mức giỏi – mức trường (với ngành nghề).
- Cấp 1
(lớp 1 – 5) cha mẹ đòi hỏi nhà trường và không được ở lại, bù bổ túc (quá kém
đề xuất Sở giáo dục).
Cao
đẳng sau đi làm được bổ túc đại học như thế nào? nên xét cao đẳng sau đi làm
(có thể phải đã đi làm mới xét) được bổ túc thêm 2 năm như thế nào ở trường Đại
học để đạt lên ngưỡng bằng đại hoc. Cao đẳng ở mỗi tỉnh (vùng) và tranh tài
dạy, khuyến khích đặt hàng. Cao đẳng sau muốn làm quản lý thì được thi học thêm
2 năm (hoặc 1 hay 3 năm…) ở đại học bổ túc những phần kiến thức gì.
Không
phổ cập đại học (phần nhu cầu, phần con người vươn, lối thoát trong ngoài
nước..), có thời điểm đất nước đạt mức phổ cập sau.
Đại học
dân lập thêm phần bí quyết đầu tư: cổ phần tới giáo viên ‘cứ thu hút được thêm
một học sinh sẽ thêm phần lợi nhuận (thỏa thuận ban đầu) mà tạo say mê gắn bó
thể hiện cuốn hút học sinh theo học.
Lớp 10
và lớp 11 hơi căng kiến thức.
19/ -
Được cuốn chiếu lớp 9 để xét tốt nghiệp phổ thông trung học 2/3 chặng chăng?
phương pháp đó chẳng hạn: môn thủ công có thể lớp 9 học xong lưu tới hết lớp 11
xét tốt nghiêp hoặc phần môn toán lớp 9 đạt khá (7 tới 9 điểm) hoặc chỉ cần
trung bình (5 điểm) được cộng 1 điểm cho môn toán trung bình lớp 11 – 12.
20/ -
Chiến lược đổi mới giáo dục như đã nêu mới đổi mới sách giáo khoa được. Có
chiến lược đúng rồi mới viết được sách.
Viết
sách nên hội đồng nhà nước, do:
- Tập
hợp được đội ngũ giáo sư chất lượng. Giáo sư đươc xã hội tôn trọng – suy tôn
cái danh thì phải lo đáp trả, giáo sư là chuyên sâu nhất những lĩnh vực. Khi
tập hơp viết sách là trả lương cao mà không phải thuê (có danh nhà nước cho
phải cống hiến).
- Có kế
hoạch tham khảo được ý kiến giáo viên, học sinh, mọi người…Viết sách riêng thêm
quá phức tạp cách cạnh tranh và đánh giá. Chúng ta nên siêng góp ý và cầu thị
là tốt.
- Chiến
lược phù hợp với chiến lược phát triển đất nước (nhà nước); bắt buộc chỉ ra
phải nghiên cứu phù hợp phát triển con người, sự vận động, thời đại…(cái chung
đường lối và cái riêng uyên bác viện hàn lâm)
- Môn
văn được chung và nhiều sách nhiều bài học qua tuyển tập thơ giai đoạn. Chú ý
văn ảnh hưởng cá nhân được nổi tiếng (‘HOT’ cá nhân nhà văn).
- Cách
đấu thầu phát hành.
- Đáp
ứng sự phong phú bằng cách: cởi mở phần chú thích…Bổ túc kịp thời sự phát hiện
phong phú…(bổ sung sách chú thích?). Cái chung theo hướng mà cái riêng được bổ
sung nhiều (bài văn giảng đại diện nhưng có tổng hợp mọi bài hay thời đại để
học sinh được biết qua, được tìm hiểu, đươc xem qua).
Nhiều
phần của những môn thì dù ai viết cũng phải chung một đường lối (kiểu một dạng
toán, sinh học quá trình nào đó…).
21/ -
Cùng 1 học sinh với tư chất hiện tại có thời điểm có thể đẩy kiến thức lên t2
cao hơn nhưng nhu cầu chỉ đẩy lên t1 hoặc có thể đẩy lên cao hơn nữa t3 (có thể
sinh viên A thời điểm chứng khoán giảm hoạt động mà giảm đầu tư học môn đó thì
ra trường sinh viên A kém hơn sinh viên B ra trước; mức hoặc sinh viên A tự
thêm môn tìm hiểu Quốc tể để hơn sinh viên B mức gì), trường đại học – cao đẳng
không áp đặt cố định mức trang bị thêm.
22/ -
Lớp 1 – 9 trường học phấn đấu tạo môi trường cuộc sống tốt và trường gần với
kiểu giữ trẻ (cha mẹ ít phải lo thời gian ở trường đầy thú vị; ở trường chiếm
đúng không gian và thời gian vận động của mỗi học sinh).
….Còn
nhiều ý của những phướng pháp để thực hiện chiến lược đổi mới giáo dục như đã
nêu mà chúng ta dễ xem xét thực tế để bổ sung.
Tóm tắt
của chiến lược đổi mới giáo dục là:
1/ -
Đổi mới giáo dục hướng ‘phong phú – hoàn thiện’, môi trường sống tốt (sách giáo
khoa, chương trình, cơ sở…).
2/- Kế
hoạch đào tạo lớp 11 là tốt nghiệp phổ thông trung học (cấp 3) và được thi vào
cao đẳng.
Học
thêm lớp 12 của những học sinh thi đại học.
Hoặc
chung cả 12 năm nhưng những người dự định chỉ thi cao đẳng thì ở cấp 3 sẽ được
bớt phần chương trình học.
3/- Xét
tốt nghiệp phổ thông trung học mà không thi, có cách khoa học để xét tốt
nghiệp. Tổ chức thi đại học.
4/-
Phương pháp bổ túc những học sinh hổng kiến thức. Phương pháp giáo viên môn phụ
tăng tiết dạy, tăng môn kèm và mọi giáo viên thêm dạy bổ túc mà tăng lương.
5/- Nhà
nước đầu tư cơ sở vật chất, cơ chế thu hút những nguồn lưc. Đầu tư mạnh cao
đẳng để thu hút, phân luồng đúng học sinh, phù hợp xã hội.
6/-
Điều chỉnh phương pháp thi đại học và đổi mới chương trình đào tạo đại học.
Phương
pháp của mình xét tốt nghiệp theo cách: quản lý học và dạy, theo điểm thi các
môn từng bài kiểm tra (học bạ).
Thi đại
học vẫn để các trường tổ chức như trước đây theo khối A B C…tùy ngành đào tạo.
Để
không bị học lệch thì có thể thêm 3 môn phụ căn bản của 5 hay 6 môn khác mà gần
ngày thi mới công bố (cách bao lâu tùy Bộ giáo dục nghiên cứu thông báo, có thể
‘bốc thăm’ công bố chỉ cách trước ngày thi 1 thàng hay 1 vài tuần), cách tổ
chức là:
Chẳng
hạn: 1 thí sinh thi khối A gồm 3 môn toán lý hóa thì có 5 môn cần phải quan tâm
để chống học sinh học lệch và bị lệch kiến thức là văn, sử, địa, sinh, ngoại
ngữ…(có thể nhiều hơn). Tới gần ngày thi thì Bộ giáo dục mới tổ chức bố thăm
chọn ra 2 hay 3 môn ngẫu nhiên còn lại mà thí sinh khối A phải thi kèm (có thể là
sinh và văn). Phương pháp bốc thăm tổ chức ở Bộ mà cũng thể về trường THPT nào
đó nhờ học sinh…
Hai môn
này tổ chức thi như thế nào?
Trả
lời: tổ chức dạng trắc nghiệm ngắn gọn trong vòng 30 tới 60 phút (có thể hơn)
cho mỗi môn và thi trong một buổi xong luôn 2 môn phụ này, tức xong một môn thì
ngồi tại chỗ nghỉ ngơi rồi thi tiếp luôn (môn văn nếu không trắc nghiệm thì có
kiểu khác).
Hai môn
này phải câu hỏi trả lời nhanh vừa kín thời gian theo kiểu dễ kiểm tra kiến
thức cơ bản môn đó và thang điểm chỉ tới 5 điểm (khác với môn chính thang điểm
là 10).
Tương
tự, thi khối C thì có thể phải thi thêm 2 môn lý và sinh…
Kiểu
kiến thức vừa cơ bản, vừa phải đọc qua hết và chỉ cần chăm nghe giảng ở lớp là
biết, chẳng hạn môn địa lý có câu hỏi kể tên tất cả các tỉnh của Việt Nam….(của
thi môn phụ).
Quan
trọng: Nếu mặt bằng chung điểm thi của thí sinh là nhiều ở một ngưỡng nào đó
(chẳng hạn đạt 20 điểm) mà những ngưỡng điểm này không chen chân được vào những
khoa tốp đầu (của trường tốp đầu), trong khi đó ngưỡng điểm này là phù hợp
trình độ cần (mức giỏi) của trường B; chẳng hạn một khoa K nào đó của trường
đại học Bách khoa B có 500 học sinh đạt ngưỡng 20 điểm muốn vào, trong khi đó
mỗi năm chỉ đủ cơ sở vật chất đào tạo khoảng 200 học sinh của khoa đó thì làm
sao? Trả lời:
Có 4
điều kiện ở đây:
1/ Nếu
nhu cầu xã hội cần tới 500 sinh viên ra trường ở khoa K đó thì trường cứ mạnh
dạn đầu tư để mở thêm cơ sở vật chất đáp ứng đào tạo (tức là nâng công suất lên
500 học sinh một khóa; bằng cách thu hút đầu tư mở rộng trường, kiểu học phí mà
‘thuê thầy’…(quy mô lớn luôn tối ưu hơn nhỏ mà – tức càng nhiều học sinh càng
dễ đầu tư phương tiện học chung).
2/ Nếu
20 điểm đó đã đáp ứng đầu vào của ‘đào tạo’ ở khoa K, tức những người đạt 20
điểm đã đạt mức phương pháp lao động (cách học – mức chăm) và đạt mức trình độ
kiến thức để đi tiếp được ở khoa K nhưng nhu cầu xã hội mỗi năm chỉ cần 200 học
sinh khoa K ra trường mà có tới 500 học sinh muốn vào thì làm sao? Trả lời: Xã
hội nếu cần những người ở mức đó (tức mức theo được khoa K) thì cần phải định
hướng tốt để có nhiều trường mà tồn tại nhiều khoa có ‘nghề nghiệp’ tương đồng
như khoa K (chẳng hạn: khoa chế tạo máy trường Bách khoa cũng gần kiểu khoa
thiết kế trương Công nghiệp…).
3/ Nếu
20 điểm đó chưa đạt để liên thông kế tiếp học ở khoa K, tức là nếu xét những
người 20 điểm vào khoa K thì mới có đủ 200 em cho một khóa đào tạo nhưng những
người này không đáp ứng trình độ kiến thức ở khoa K cần để đi tiếp (trên 20 điểm
thì đủ trình độ nhưng lại không có đủ đăng ký vào khoa)? làm sao đây? Trả lời:
tức là lúc này trình độ đào tạo ở cấp phổ thông không đáp ứng để vào đại học
chứ sao, lúc này phải đổi mới cách đào tạo cấp phổ thông để có ‘nguồn học sinh
đạt’ (tức là muốn chất lượng đại học đúng thì phải cần nguồn tuyển ở cấp dưới
vào có trình độ đúng).
4/ Nếu
mặt bằng 20 điểm quá nhiều (tức là khoa điểm cao không với tới, khoa điểm thấp
thì không muốn vào; tức là nghề ‘ngon’ không với tới, nghề ‘chưa ngon’ lại
không muốn vào) thì làm sao? Trả lời: thì phải đòi hỏi cao hơn nữa ở cấp phổ
thông để đẩy thêm nhiều người đạt tốp trên 20 điểm và có phương án đổi mới đào
tạo ở cao đẳng – đại học để những người 20 điểm này (không gắng được ở cấp phổ
thông để có điểm cao hơn) vào tiếp được ở những mức khoa mà ‘cách lao động xã
hội’ có điều chỉnh phù hợp đòi hỏi mức đầu ra (xã hội – nền kinh tế một nước
chỉ đang đạt mức đó, để mà có đúng chiến lược đầu tư và tổ chức; kiểu chưa tự
cạnh tranh sản xuất được ô tô) và ở các khoa của các trường đại học có cách đào
tạo để phân hóa thêm mức trình độ.
Chỉ có
cách thi đại học mới đáp ứng những điểm trên, mới phân hóa được trình độ phù
hợp nghề và phù hợp ‘đòi hỏi’ đào tạo tiếp ở cấp cao hơn.
Quan
trọng nhất: Quá trình thi đại học và đăng ký thi hàng năm thì tự cạnh tranh
điểm vào các khoa (với tác động của nhu cầu xã hội đáp ứng như thế nào lúc ra
trường) mà dần đạt ngưỡng như mức ‘thông báo’ đúng với học sinh phổ thông là
nên ‘đăng ký’ vào đâu hàng năm rồi. Tổ chức cách thi này tốt qua vài năm là tự
phân luồng được trình độ học sinh và ‘nguồn đào tạo’ cho xã hội, phù hợp sở
thích nghề mỗi người theo đuổi. Cơ chế thị trường cũng sẽ tác động đúng với
‘cung cầu’ (cần đầu ra như thế nào; số lượng, chất lượng…)
Chẳng
hạn: Các trường đại học được cơ chế tự tuyển sinh thì vài năm sẽ tự phân luồng
mức học sinh dám thi vào những đâu tùy mức ‘trình độ’ đã có ở cấp 3 (thời xưa
chỉ ai học giỏi mới dám đăng ký thi trường Y…) hoặc tùy ‘phong cách lao động’
theo đuổi (ngành chế tạo máy có thể ra trường ‘việc ngon’ nhưng chủ yếu nam
theo học và ở mức học còn phải kèm với cách chịu khó kiểu ‘công nghiệp’.
Bỏ thi
tốt nghiệp mà học sinh vẫn phải học bởi xét tốt nghiệp theo điểm từng môn thi
từng lúc trong học bạ (học sinh hay bỏ học sẽ dễ trượt vì điểm phụ thi 15 phút
hay không tham gia hoặc làm kém…). Như thế lại đánh giá đúng chất lượng, giáo
viên có trách nhiệm, bổ túc đúng phần hổng kiến thức…Đạt thi đua tốt các vùng
trong khâu giáo dục (tự cho điểm mà tự khẳng định công đào tạo).
Trách
nhiệm giáo viên sẽ rất lớn vì hổng kiến thức thì học bạ kém mà sẽ trượt tốt
nghiệp. Cả trường phải lo bổ túc cho học sinh kém đậu ‘từng giai đoạn’ cho tới
lúc đậu qua (học sinh học kém vẫn sẽ đậu nhưng tốn thời gian ‘học đi - học lại’
hơn). Kiên trì dạy cho tới lúc hầu hết học sinh đậu hết mà cách đậu này ‘đủ
tính nhân văn’, đúng kiến thức cần và có trang bị cho mỗi học sinh’….Khác với
học sinh tự đi thi tốt nghiệp đậu hoặc trượt mà năm sau phải thi lại (tự ôn thi
lại); tức là học sinh phải tự lo cho đủ kiến thức để thi đậu còn phương pháp bỏ
thi thì giáo viên phải lo trang bị cho đủ kiến thức (có thể có học sinh kém
phải mất 13 năm mới đạt như học sinh thi lại mới đậu).
Giáo
viên gắn kết được trách nhiệm mà không phó mặc cứ thi qua là qua (phó mặc cái
chưa đạt?) và giáo viên có thêm quyền hạn lớn gắn với trách nhiệm lớn (được xét
đậu tốt nghiệp nhưng cũng phải chịu trách nhiệm nếu để hổng kiến thức).
Xét học
bạ để đậu tốt nghiệp là quy trách nhiệm lớn lao hơn cho giáo viên và giáo viên
cũng tự hào với trách nhiệm gánh vác đó, khác với cứ thích học sao tùy học sinh
cứ thi qua là qua.
Điểm
học bạ lấy từ bài kiểm tra 15 phút tới thi học kỳ để xét thì học sinh lại lo
học hơn phương pháp ít chú trọng học bạ mà chỉ thi tốt nghiệp để công nhận đậu.
Học sinh giờ giấc và phương pháp theo học không đúng cũng dễ trượt (quản lý
phương pháp rèn luyện, lao động…tạo phong cách hoàn thiện dần con người).
Từ đó
xóa được bệnh thành tích, các địa phương tự giác lo cho con em mình…khẳng định
được trình độ giáo dục các địa phương.
Bằng
tốt nghiệp kiểu này có được Thế giới và các nước công nhận không ư? Trả lời:
Gộp điểm để xét đậu tốt nghiệp trong tất cả quá trình học và rèn luyện (phong
cách lao động, tính cách), cùng với ‘bổ túc’ hổng mọi khâu – mọi chỗ thì đã
hoàn thiện nhất cho mỗi học sinh (phải chăng những người ở Bộ giáo dục Việt Nam
có phần sợ điều này?).
Lưu ý:
- Thi tốt nghiệp xét đại học sẽ xu hướng tạo nguồn sinh viên thừa (các trường
đại học thích vì sẽ dễ tuyển được nhiều), nhưng chất lượng chuyên môn sẽ kém
dần (thiếu tính chuyên môn cao ở xu hướng những nghề). Sinh viên đại học tốt
nghiệp ra trường sẽ nhiều và thất nghiệp nhiều. Sẽ bị phá lệch nguồn học ra
đóng góp cho xã hội và hao phí cực lớn (mức xã hội chỉ cần bao nhiêu phần tốt
nghiệp PT, Cao Đẳng, Đại học...)....Các trường phải chăng không muốn tự tổ chức
thi tuyển để đỡ mất công? (trường tốp đầu thì sợ công sức, chi phí phải bỏ ra;
trường tốp dưới thì cứ chờ ‘kiểu 15 điểm do đề dễ’ mà nguồn cùng học sinh
nhiều).
Chúng
ta phải đổi mới vẫn phải có cách để tạo những học sinh có giỏi 'chuyên' nhưng
không bị lạc lõng nghèo nàn cái khác thì mới đáp ứng được nhu cầu 'đầu tàu'. .
-
Phương pháp của mình tạo được phù hợp đội ngũ tay nghề. Quan trọng nhất sẽ lọc
được hao phí kiểu gần đủ số sinh viên dự thi vào trường A mà lấy được gần hết
với đúng chất lượng đầu vào (chẳng hạn: trường Kinh tế cơ chế tuyển sinh tốt sẽ
chỉ có 1000 thí sinh dự thi trong khi đó chỉ tuyển 950 thí sinh mà 1000 thí
sinh dự thi này đảm bảo mức chất lượng cần tuyển của trường, lượng trượt chỉ có
50 mà đỡ phí tổn cho xã hội. Khác với có 3000 dự thi mà chất lượng dự thi kém
và phải trượt nhiều. Ở đây 'tự lượng được mức học mới dám đăng ký').
Phương
pháp đó tạo được say mê nghề mà phấn đấu cho đúng trình độ thi vào, khác với cứ
được điểm là xét vào trường nào đó cho đậu từ trên xuống dưới (dù sẽ đi lạc
nghề sau này và lệch nguồn lao động xã hội). Xã hội đạt đúng cách tổ chức lao
động (theo cung cầu thị trường, trình độ). Chẳng hạn: nếu đăng ký thi trường Y
mà đạt 26 điểm 3 môn vẫn trượt thì cũng đừng tiếc là điểm cao thế mà không đậu
theo kiểu trường khác chỉ 15 điểm đã đậu (ở đây là người ta thi cái nghề), thí
sinh đó sẵn sàng ôn thi lại năm sau (qua 1 năm ôn sẽ giỏi hơn mà đáp ứng nhu
cầu ngành đó cần trình độ), nếu năm sau không đậu thì hãy xét đi trường thấp
hơn (vì mình không đạt trình độ bác sỹ được) hoặc cao đẳng Y (để cơ hội tiếp
sau này). Đại học Harvard tuy đầu vào khó nhưng đâu ra sẽ là tốp đầu nhân lực
cho xã hội.
Lộ
trình đổi mới giáo dục theo cách mình trình bày (bỏ thi tốt nghiệp và duy trì
thi đại học) sẽ đạt tiến bộ, theo kịp thời đại nhưng phải có lộ trình chuẩn bị
và đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới cơ chế xã hội mà không thể quy định thực hiện
ngay được.
(mình
có hơn 10 năm chuyên miệt mài nghiên cứu sự vận động – phát triển xã hội;
Mong
nhận thêm mọi góp ý bổ sung và phản biện của mọi người.
(Lê
Thanh Đức - 39 Ngư Hải - Vinh city; tel 0912389983 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét